Sản phẩm tiêu biểu
Hỗ trợ doanh nghiệp
Bảo vệ người tiêu dùng

Thống kê truy cập

Đang truy cậpĐang truy cập : 35


Hôm nayHôm nay : 5410

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 225431

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 33501620

Chuyển đổi số
hành động vì an toàn thực phẩm
Tra cứu thủ tục hành chính
Phản Ánh kiến nghị
Chiển thắng Điện Biên Phủ

Trang nhất » Tin tức - Sự kiện » Hội nhập Quốc tế

Tổng quan về tổ chức thương mại thế giới (WTO)

Thứ bảy - 30/07/2016 15:25
Tổng quan về tổ chức thương mại thế giới (WTO)
1. Lược sử hình thành và phát triển của WTO
1.1. Từ hệ thống Bretton Woods đến WTO
 
WTO được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01.01.1995, nhưng hệ thống luật lệ thương mại quốc tế thuộc diện điều chỉnh của Tổ chức này thì đã tồn tại từ trước đó
Từ năm 1944, song song với việc đàm phán thành lập Tổ chức Liên Hợp quốc, Hệ thống Bretton Woods được thành lập với  kết cấu có ba trụ cột cơ bản là Ngân hàng Thế giới ( WB ), Quỹ Tiền tệ quốc tế ( IMF ) và ITO với tính cách là một Tổ chức chuyên môn của Liên Hợp quốc.
Nhằm thành lập ITO, hơn 50 nước đã tham gia đàm phán xây dựng các văn kiện pháp lý của ITO. Trước khi kết thúc thảo luận vào năm 1946, 23 trong số 50 nước tham gia đàm phán đã tiến hành đàm phán để giảm và thực hiện thuế quan ràng buộc. Ngay khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, các nước này tiến hành ngay quá trình tự do hoá thương mại; loại bỏ nhiều biện pháp bảo hộ vẫn được áp dụng từ đầu những năm 1930, mở đường cho 45.000 nhượng bộ thuế quan liên quan tới khoảng một phần năm thương mại thế giới, tương đương 10 tỷ USD; chấp nhận một số quy định về luật chơi-luật tác nghiệp trong thương mại quốc tế và nhanh chóng áp dụng “tạm thời” để bảo vệ kết quả của các nhượng bộ về thuế quan. Toàn bộ các quy định về luật chơi-luật tác nghiệp trong thương mại quốc tế đó được đưa vào trong một văn bản pháp luật quốc tế dưới tên gọi là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (Hiệp định GATT 1947), có hiệu lực từ tháng 1-1948. Trong khi đó, văn kiện pháp lý về tổ chức của ITO-Hiến chương La Havana mãi sau mới được thông qua tại Hội nghị Liên Hợp quốc về thương mại và sử dụng lao động tổ chức tại La Havana năm 1948. Song, do một số nước lớn không phê chuẩn Hiến chương La Havana, nên ITO không thể trở thành hiện thực. Do đó Hiệp định GATT 1947 là hiệp định quốc tế nhiều bên duy nhất điều chỉnh quan hệ thương mại hàng hoá trên phạm vi toàn cầu từ năm 1948 cho đến khi WTO ra đời vào năm 1995.
Lịch sử hơn nửa thế kỷ vận động thành lập một tổ chức thương mại toàn cầu chủ yếu được đánh dấu tại Geneva, Thuỵ sỹ. Tuy nhiên, sự thành lập tổ chức thương mại toàn cầu đó đã có không ít thăng trầm trải khắp các châu lục, từ những bước đi chập chững ban đầu vào năm 1947 tại Geneva (Thuỵ sỹ), đến Annecy (Pháp) năm 1949, Torquay (Vương quốc Anh) 1951, Tokyo (Nhật Bản) 1979 và cuối cùng tới Marrakesh (Marốc) năm 1994. Trong suốt khoảng thời gian này, Hiệp định GATT 1947 đã vận hành như một hiệp định-luật chơi-luật tác nghiệp trong thương mại hàng hoá quốc tế nhiều bên như đã dự định. Do không thành lập được ITO, nên Hiệp định GATT 1947 cũng được vận hành như một tổ chức quốc tế de facto, trên thực tế (GATT) điều chỉnh toàn bộ hệ thống thương mại hàng hoá quốc tế. Đến những năm 1980, việc cải cách toàn diện hệ thống thương mại toàn cầu đã trở nên cấp thiết, mở đường cho sự ra đời của Vòng đàm phán Urugoay thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Ý tưởng về một vòng đàm phán quyết liệt để thành lập WTO được nhen nhóm vào tháng 11-1982 tại Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên GATT tại Geneva, nhưng hội nghị lúc đó đã không vượt qua được rào cản quá lớn là vấn đề nông nghiệp. Song trên thực tế, chương trình làm việc do các bộ trưởng đưa ra đã tạo tiền đề cho chương trình Vòng đàm phán Urugoay.Phải mất bốn năm vất vả cùng nhiều nỗ lực tìm kiếm và dàn xếp các vấn đề để đi đến nhượng bộ, các bộ trưởng mới đưa ra được quyết định vào tháng 9-1986 tại Punta del Este (Urugoay) về một Chương trình đàm phán đề cập hầu như toàn bộ các vấn đề về chính sách thương mại toàn cầu. Các cuộc đàm phán có nhiệm vụ thúc đẩy việc mở rộng nhiều lĩnh vực mới, đặc biệt là thương mại dịch vụ và thương mại về quyền sở hữu trí tuệ, cải tổ các chính sách thương mại đối với những sản phẩm nhạy cảm như nông sản và hàng dệt may. Tất cả các điều khoản của Hiệp định GATT 1947 đã  được  xem xét lại. Ngày 15-4-1994, đa số các Bộ trưởng của 123 nước gia đàm phán đã ký Văn kiện cuối cùng của Vòng đàm phán Urugoay tại cuộc họp diễn ra ở Marrakesh ( Marốc). Hiệp định và Tuyên bố Marrakesh ngày 15/4/1994 đã khẳng định kết quả Vòng đàm phán Uruguay là nhằm tăng cường nền kinh tế thế giới và thúc đẩy thương mại, đầu tư, tăng việc làm và thu nhập trên toàn thế giới và thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Một hệ thống các hiệp định điều chỉnh quan hệ thương mại toàn cầu ( mà ba trụ cột cơ bản là Hiệp định về thương mại và thuế quan- Hiệp định GATT 1994; Hiệp định về thương mại dịch vụ- Hiệp định GATS; Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ- Hiệp định TRIPS) đã được ký kết giữa các nước, trong đó có nhiều hiệp định có xác định lộ trình cho những việc phải làm ngay lập tức nhưng cũng có việc sẽ làm trong tương lai. Đối với một số lĩnh vực, việc phải làm là tiếp tục đàm phán hoặc xúc tiến những cuộc đàm phán mới. Một số lĩnh vực khác lại yêu cầu đánh giá tình hình triển khai hiệp định vào những thời điểm cụ thể. Một số cuộc đàm phán thì nhanh chóng kết thúc, đặc biệt là về vấn đề hạ tầng viễn thông và dịch vụ tài chính (chính phủ các nước đã rất nhanh chóng đi đến thống nhất về việc mở cửa thị trường cho sản phẩm công nghệ thông tin, vấn đề vượt ra ngoài khuôn khổ của chương trình WTO), một số cuộc đàm phán khác thì phức tạp hơn, mất nhiều thời gian hơn. Tuy vậy, Vòng Uruguay và các cam kết ở đó cũng đặt cơ sở cho các cuộc đàm phán mới về hàng loạt các vấn đề trong thời gian tới.  
1.2. Từ WTO đến Chương trình Doha phát triển và con đường tiếp theo
Khoảng năm 1995-1996, một số nước thành viên WTO đề nghị tiến hành vòng đàm phán mới trước năm 2000 về hàng loạt vấn đề mà các nhóm nước khác nhau trong WTO quan tâm. Các cuộc đàm phán được bắt đầu vào năm 1996. Một chương trình đàm phán mới đã được đưa ra gồm hơn 30 đề mục, trong đó có một số vấn đề đáng chú ý: Dịch vụ vận tải hàng hải (kết thúc đàm phán về mở cửa thị trường (tiến hành vào ngày 30-6-1996, hoãn lại tới năm 2000, sau chuyển sang Chương trình Doha); Dịch vụ và môi trường (xác định thời hạn báo cáo kết quả của nhóm công tác tháng 12/1996); Dịch vụ mua sắm chính phủ (tiến hành đàm phán đầu năm 1997); Dịch vụ viễn thông cơ bản (kết thúc đàm phán  tháng 2/1997); Dịch vụ tài chính (kết thúc đàm phán tháng 12/1997); trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: thiết lập hệ thống đa phương về thông báo và đăng chỉ dẫn địa lý đối với rượu vang (tiến hành đàm phán, trở thành một bộ phận trong Chương trình Doha); Hàng dệt may (một giai đoạn mới bắt đầu vào tháng 1/1998); các biện pháp phòng vệ khẩn cấp trong lĩnh vực dịch vụ (áp dụng kết quả đàm phán trước 01-01-1998, hoãn lại đến tháng 3-2004); Quy tắc xuất xứ sản phẩm (đi đến sự thống nhất tương đối giữa các quy tắc về xuất xứ sản phẩm của các quốc gia tháng 7/1998); các vấn đề về mua sắm chính phủ (mở những cuộc đàm phán mới để cải thiện các quy tắc và thủ tục bắt đầu vào cuối năm 1998); xem xét lai toàn bộ các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp (trước năm 1998); Bắt đầu xem xét một số ngoại lệ đối với việc cấp bằng sáng chế và bảo vệ đa dạng thực vật (năm 1999); năm 2000 sẽ xem xét các vấn đề nông nghiệp, dịch vụ thuộc Chương trình Doha, các cam kết trần về thuế quan (xem xét lại khái niệm “nhà cung cấp chính” tại Điều 28 Hiệp định GATT 1994 về quyền của người tham gia đàm phán đối với việc sửa đổi mức trần), thống nhất kiểm tra định kỳ (hai năm một lần) việc thực thi Hiệp định TRIPS; trong năm 2002 xem xét các vấn đề dệt may và năm 2005 chấm dứt thời gian hiệu lực của hiệp định dệt may và áp dụng hoàn toàn Hiệp định GATT 1994 trong lĩnh vực này.
Tại Hội nghị Bộ trưởng lần thứ tư tổ chức tại Doha (Qatar) vào tháng 11/2001, các nước thành viên WTO đã nhất trí tiến hành Vòng đàm phán mới. Họ cũng thống nhất sẽ thảo luận nhiều vấn đề khác, đặc biệt là việc thực thi các hiệp định hiện nay. Tất cả các hoạt động này nằm trong một chương trình chung được gọi là Chương trình Doha Phát triển (DDA).
Các cuộc đàm phán diễn ra trong khuôn khổ của Uỷ ban đàm phán thương mại và các cơ quan hỗ trợ cho uỷ ban này. Đó thường là những hội đồng hoặc uỷ ban được triệu tập trong các “phiên họp bất thường”, hoặc những nhóm đàm phán được lập ra chuyên trách về một nội dung đàm phán. Các hoạt động khác của Chương trình sẽ do các hội đồng hoặc các uỷ ban khác của WTO tiến hành. Tuyên bố Doha nêu ra 19-21 nhóm nội dung, tuỳ theo “quy tắc” mà cấu thành một hoặc ba nhóm nội dung để thảo luận. Phần lớn các nội dung này đòi hỏi phải tiến hành đàm phán; số còn lại thì đòi hỏi các biện pháp “thực hiện”, phân tích và theo dõi đánh giá.
2. Mục đích, nguyên tắc và tổ chức của WTO
2.1. Mục đích của WTO
Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Tuy vậy, nói một cách đơn giản, WTO trước tiên là một khuôn khổ thiết chế pháp luật quốc tế, là nơi được tạo lập để chính phủ các nước có thể đến đó để trao đổi, thoả thuận với nhau những vấn đề chung của hoạt động thương mại giữa các quốc gia trên quy mô toàn thế giới. Với cách nhìn như vậy, WTO tiếp tục các mục tiêu mà văn kiện thành lập ITO đã đề ra từ năm 1948 nhưng không được thực hiện.
WTO còn được nhìn nhận như là tập hợp những quy định, quy tắc, luật chơi-luật tác nghiệp trong thương mại, kinh doanh toàn cầu.
Mục tiêu trọng tâm của WTO là góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho tự do thương mại nhưng vẫn tránh được những tác hại không mong muốn do một số hành vi tự phát của một số cá nhân, tổ chức mang lại. Đó là xoá bỏ những rào cản thương mại, thông báo những quy định thương mại hiện hành trên thế giới cho các cá nhân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời bảo đảm với họ sẽ không có thay đổi đột ngột nào trong các chính sách, pháp luật đang được áp dụng.
WTO còn có mục đích giúp các nước giải quyết tranh chấp.
Nói tóm lại, WTO là một thiết chế pháp lý quốc tế liên quan đến các quy định, quy tắc, luật chơi của thương mại, kinh doanh toàn cầu. Hạt nhân của thiết chế pháp lý quốc tế này là các hiệp định của WTO được các nước, các nền kinh tế tham gia quan hệ thương mại quốc tế xây dựng và cam kết thực hiện. Các hiệp định này đã tạo lập một khung pháp lý vững chắc cho thương mại đa biên, là khuôn khổ ràng buộc chính phủ các nước duy trì chính sách thương mại của mình phù hợp với kỷ cương đã được định lập. Cho dù các hiệp định đó là do chính phủ các nước, các nền kinh tế đàm phán và ký kết với nhau, nhưng đích cuối cùng của chúng là trợ giúp các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá và cung ứng dịch vụ, các nhà xuất khẩu và nhập khẩu trong điều chỉnh các hành vi thương mại, kinh doanh của họ. Với lẽ đó, WTO có ba mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất, giúp cho dòng thương mại càng tự do được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Để làm được như vậy, người ta cố gắng để mọi cái có thể rõ ràng mà không trừu tượng, có thể nhận biết và dự báo trước được.
Thứ hai, thực hiện chức năng của trung tâm dàn xếp, thương lượng và thoả thuận các chính sách, quy định, quy tắc, luật chơi của thương mại, kinh doanh toàn cầu.
Thứ ba, là trung tâm để giải quyết các bất đồng, các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế.
2.2. Các nguyên tắc cơ bản của WTO
Như trên đã nêu, hệ thống các hiệp định của WTO khá lớn và đồng bộ, bao quát cả một phạm vi rộng lớn các hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế. Các hiệp định đó liên quan đến thương mại  hàng hoá , thương mại  dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư quốc tế, không loại trừ các hoạt động trong nông nghiệp, hàng dệt và may mặc, ngân hàng, vô tuyến viễn thông, mua sắm của chính phủ, các tiêu chuẩn công nghiệp, các quy định về vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, và trong các lĩnh vực khác. Tuy vậy, các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc nền tảng của thương mại, kinh doanh toàn cầu được thiết kế xuyên suốt toàn bộ các hiệp định. Có thể nêu lên một số nguyên tắc cơ bản sau đây của các chính sách, quy định, quy tắc, luật chơi của thương mại, kinh doanh toàn cầu của WTO:      
2.2.1. Thương mại không phân biệt đối xử
Thương mại thế giới phải được thực hiện một cách công bằng, không có sự phân biệt đối xử, với nội dung cơ bản như sau:
a) Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), tức là chế độ ở các lĩnh vực mình dành cho hàng hoá của một nước bạn hàng này tới mức nào thì cũng phải dành cho hàng hoá của các nước bạn hàng khác chế độ đãi ngộ như vậy, bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử nào. Đây là nội dung quan trọng vì nó được quy định ngay tại điều đầu tiên của Hiệp định GATT 1994, hiệp định đóng vai trò điều tiết thương mại hàng hoá. Đây cũng là nội dung ưu tiên của các hiệp định quan trọng khác của WTO, cho dù mỗi hiệp định sử dụng những thuật ngữ ít nhiều có khác nhau: Điều 2 của Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (Hiệp định GATS), Điều 4 của Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS). Ba hiệp định trên đồng thời chi phối ba lĩnh vực thương mại chính mà WTO can thiệp.
Tuy có quy định như vậy nhưng WTO cũng cho phép một số trường hợp ngoại lệ được miễn trừ áp dụng quy định về MFN. Chẳng hạn, hai hoặc một số nước có thể ký kết một hiệp định thương mại tự do (BFTA, RFTA), theo đó một quy chế thuế quan ưu đãi có thể chỉ được áp dụng đối với những hàng hoá trao đổi trong nội bộ hai hoặc nhóm nước đó - đây là một hình thức phân biệt đối xử đối với hàng hoá của các nước ngoài nhóm. Một ví dụ khác, một hoặc một số nước có thể tạo cơ hội đặc biệt để hàng hoá của một hoặc một số nước đang phát triển hoặc chậm phát triển dễ dàng tiếp cận thị trường nước mình. Tương tự, một nước cũng có thể nâng rào cản thương mại đối với sản phẩm của nước mà họ cho rằng có sử dụng những biện pháp thương mại không lành mạnh. Đối với lĩnh vực dịch vụ, trong một số trường hợp nhất định, các nước có thể áp dụng biện pháp phân biệt đối xử. Tuy nhiên, các hiệp định của WTO cũng quy định chỉ được phép làm như vậy trong các điều kiện nghiêm trọng. Nói một cách khác, MFN có nghĩa là khi một nước giảm bớt hàng rào thuế quan hay mở cửa thị trường nước mình vô điều kiện thì nước này phải dành sự đãi ngộ đó cho mọi hàng hoá và dịch vụ tương tự của tất cả các nước đối tác thương mại, cho dù đối tác đó giàu hay nghèo, mạnh hay yếu.
b) Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ quốc gia (NT), tức là chế độ không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước, khi hàng nhập khẩu đã được đưa vào thị trường trong nước. Các quốc gia có chính sách đối xử như thế nào đối với hàng hoá sản xuất trong nước, thì cũng phải đối xử như vậy đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên WTO. Nội dung này yêu cầu hàng nhập khẩu phải được đối xử không kém phần thuận lợi hơn hàng nội địa ngay sau khi hàng nhập khẩu đã thâm nhập vào thị trường nội địa. Yêu cầu này cũng được áp dụng đối với lĩnh vực dịch vụ, thương hiệu, bản quyền, bằng sáng chế nước ngoài. Nội dung quy định về NT cũng được thể hiện trong cả ba hiệp định chính của WTO (Điều 3 của Hiệp định GATT 1994, Điều 17 của Hiệp định GATS và Điều 3 của Hiệp định TRIPS), mặc dù trong trường hợp này các thuật ngữ sử dụng trong các hiệp định không hoàn toàn thống nhất với nhau. Yêu cầu về NT, tuy vậy chỉ được áp dụng khi một sản phẩm, dịch vụ hay một yếu tố sở hữu trí tuệ đã thâm  nhập được vào thị trường nội địa. Do vậy, việc đánh thuế nhập khẩu và các loại thu hải quan tại cửa khẩu không vi phạm nội dung NT của nguyên tắc không phân biệt đối xử ngay cả khi nước nhập khẩu không có một loại thuế hoặc loại thu tương tự đánh vào sản phẩm nội địa.
Chế độ MFN và chế độ NT, trên thực tế, chủ yếu áp dụng rộng rãi cho  lĩnh vực thuế quan, phi thuế quan, thanh toán, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm…cả trong thương mại, đầu tư và sở hữu trí tuệ và đều có những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, hiện nay cộng đồng quốc tế đang tích cực vận động để mở rộng nguyên tắc không phân biệt đối xử cho cả thể nhân, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, thương mại dịch vụ, và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
2.2.2. Tự do hơn cho thương mại, kinh doanh  quốc tế
Một trong những biện pháp hiển nhiên nhất nhằm khuyến khích thương mại phát triển là giảm bớt các rào cản thương mại, chẳng hạn như giảm các hàng rào thuế quan và loại bỏ những biện pháp phi thuế quan. Từ khi Hiệp định GATT 1947ra đời đến nay đã diễn ra nhiều vòng đàm phán thương mại xoay quanh vấn đề cắt giảm thuế quan áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu. Nhờ vậy mà vào những năm ngay trước khi thành lập WTO, các nước công nghiệp phát triển đã  giảm được  4% tổng mức thuế nhập khẩu bình quân đánh vào hàng công nghiệp.
Tuy nhiên, phạm vi đàm phán đã được mở rộng, bao trùm cả những vấn đề liên quan đến các rào cản thương mại phi thuế quan trong thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Mở cửa thị trường có thể đem lại nhiều thuận lợi, nhưng nó cũng đòi hỏi các nước phải có một số điều chỉnh nhất định trong chính sách và pháp luật thương mại, kinh doanh của mình. WTO được thành lập cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách và pháp luật của mình, thông qua “lộ trình tự do hoá thương mại từng bước”. Các nước đang phát triển thường được hưởng một thời gian chuyển đổi trong việc thực hiện các nghĩa vụ đó. Xu thế chung của các nước là luôn coi thương mại là yếu tố mang tính quyết định hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế quốc gia, trong đó thị trường là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Do vậy, cộng đồng thương mại quốc tế mà đại diện là WTO luôn xác định tự do hoá thương mại từng bước là mục tiêu hàng đầu phải nỗ lực thực hiện.
Chính vì vậy mà nội dung cốt lõi của nguyên tắc tự do hơn cho thương mại quốc tế là cắt giảm dần từng bước hàng rào thuế quan và phi thuế quan, để đến một lúc nào đó trong tương lai sẽ xoá bỏ hoàn toàn và mở đường cho thương mại phát triển. Tự do hoá thương mại từng bước gắn với việc dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại thông qua đàm phán song phương và đa phương phù hợp với luật lệ và khả năng cụ thể của từng nước. Đến nay hầu hết các nước đều hưởng ứng chủ trương tự do hoá thương mại từng bước của WTO để tranh thủ khả năng và cơ hội hợp tác, liên kết kinh tế ở các mức độ khác nhau, tham gia vào phân công lao động quốc tế, thâm nhập vào thị trường quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Như trên đã trình bày, WTO chủ trương không hạn chế số lượng hàng hoá nhập khẩu giữa các nước thành viên thông qua tự do hoá thương mại từng bước. Tuy nhiên, WTO cũng cho phép có những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng chế độ hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu (QR) khi nước đó gặp những khó khăn về cán cân thanh toán, hoặc do trình độ phát triển thấp của nền kinh tế trong nước, hoặc vì những lý do về môi trường, an ninh quốc gia. Tuy vậy, đây chỉ là những trường hợp đặc biệt, có tính chất tạm thời, cần có thời hạn cụ thể để xoá bỏ hẳn và cần có sự chấp thuận của WTO và các nước thành viên liên quan theo các điều kiện thương mại quốc tế cụ thể.
2.2.3. Nguyên tắc ổn định trong hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế
WTO chủ trương thương mại quốc tế phải được tiến hành trên cơ sở ổn định, minh bạch, công khai, không ẩn ý nhờ vào các cam kết thương mại quốc tế có tính ràng buộc và chính sách, pháp luật thương mại quốc gia minh bạch, công khai. Qủa thực, trong thực tế, có lẽ đôi khi lời hứa không tăng thêm rào cản cũng quan trọng không kém lời hứa giảm rào cản thương mại, bởi vì điều này giúp doanh nghiệp thấy được rõ hơn khả năng phát triển kinh doanh của mình trong tương lai. Chính sách và pháp luật thương mại ổn định và minh bạch, công khai sẽ khuyến khích đầu tư, tạo công ăn việc làm; người tiêu dùng cũng tận dụng được nhiều lợi thế nhờ tự do cạnh tranh, có thêm nhiều cơ hội lựa chọn và được hưởng một mức giá thấp. Hệ thống thương mại đa biên cụ thể hoá những nỗ lực của các nước thành viên nhằm tạo một môi trường thương mại ổn định và dễ dự báo các rủi ro thương mại cho bất cứ đối tác nào tham gia quan hệ thương mại quốc tế.
Để thực hiện nguyên tắc ổn định trong hoạt động thương mại, WTO quy định các nước thành viên phải thông qua đàm phán, đưa ra các cam kết với những lộ trình thực hiện cụ thể. Đối với WTO, việc các nước thành viên thoả thuận mở cửa thị trường hàng hoá hoặc dịch vụ đồng nghĩa với việc ràng buộc các cam kết về việc thâm nhập thị trường nội địa. Trong lĩnh vực hàng hoá, sự ràng buộc đó thể hiện ở việc ấn định tổng mức thuế suất thuế quan cam kết trần. Có thể có trường hợp, đặc biệt đối với các nước đang phát triển, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu thấp hơn mức thuế suất thuế quan cam kết ràng buộc. Còn đối với các nước phát triển, mức thuế suất thuế quan trần hiện đang thay đổi, nên trong thực tế, có thể có trường hợp mức thuế suất thuế quan áp dụng tương đương với mức thuế suất thuế quan cam kết ràng buộc. Như vậy, một nước có thể sửa đổi mức thuế suất thuế quan cam kết cụ thể của mình. Tuy thừa nhận quyền của mỗi nước thành viên được đàm phán lại cam kết của mình, nhưng nước đó chỉ được áp dụng các sửa đổi đối với các cam kết của mình sau khi đàm phán thành công với các đối tác thương mại; điều này cũng có nghĩa nước đó có thể phải chấp nhận một khoản bồi thường thiệt hại có thể xảy ra cho các thành viên khác do làm mất cơ hội kinh doanh của họ.  
Theo nguyên tắc nói trên, mọi chế độ pháp lý, chính sách thương mại của quốc gia phải được công bố công khai cho mọi người, ổn định trong một thời gian dài và có thể dự báo trước những rủi ro thương mại có thể xảy ra. Nếu quốc gia thay đổi chế độ pháp lý, chính sách thương mại của mình thì phải thông báo trước cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có đủ thời gian nghiên cứu, góp ý, phản ánh nguyện vọng của họ trước khi đưa chế độ pháp lý, chính sách đã thay đổi đó ra áp dụng. WTO đã có nhiều nỗ lực trong  sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm tăng cường tính minh bạch, công khai và ổn định của thương mại. Rất nhiều hiệp định của WTO yêu cầu các nước thành viên công bố trên phạm vi toàn quốc hoặc thông báo cho WTO những chính sách, pháp luật thương mại quốc gia được thông qua. Theo cơ chế thực thi nguyên tắc này, WTO thường xuyên giám sát chính sách, pháp luật thương mại của từng nước thành viên thông qua Cơ chế Rà soát chính sách, pháp luật thương mại nhằm tăng cường tính minh bạch trên cả bình diện quốc gia lẫn bình diện quốc tế.
2.2.4.Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh
WTO luôn chủ trương tăng cường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong thương mại quốc tế, để cho chất lượng, giá cả quyết định vận mệnh của hàng hoá trong cạnh tranh thương trường; không được dùng quyền lực Nhà nước để áp đặt, bóp méo tính lành mạnh, công bằng của cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Đôi khi có người hiểu nhầm WTO là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể hỗ trợ cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển trong thương mại quốc tế toàn cầu. Cũng có người mô tả WTO như là một chế định thương mại tự do mà ở đó ai cũng có thể tuỳ cơ mua bán. Điều đó hoàn toàn không chính xác. Hệ thống này cho phép áp dụng thuế quan đối với hàng hoá, thậm chí trong một số trường hợp nhất định, nó còn cho phép áp dụng một số biện pháp và cách thức bảo hộ khác nhau. Như vậy, nếu nói chính xác hơn thì WTO chính là một hệ thống những quy tắc, luật lệ nhằm bảo đảm cạnh tranh rộng mở, lành mạnh và không có sai phạm luật chơi chung. Những quy định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử cũng nhằm mục tiêu bảo đảm để có những điều kiện tốt cho thương mại bình đẳng. Và điều này cũng có mục đích tương tự như những quy định về việc bán phá giá (xuất khẩu với giá thấp hơn giá trị bình thường của sản phẩm nhằm chiếm thị phần) và trợ cấp. Đối với những vấn đề phức tạp như thế này, các quy định của WTO giúp xác định trường hợp nào là thương mại không lành mạnh và chính phủ các nước có thái độ như thế nào cho thích hợp. Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh đã được WTO nhấn mạnh trong các lĩnh vực khác nhau của thương mại hàng hoá như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước; quyền cấp giấy kinh doanh xuất, nhập khẩu; cấp hạn ngạch; trợ cấp; bán phá giá; quản lý ngoại hối; quản lý giá  và các hoạt động trong lĩnh vực phi thuế quan khác. WTO cũng có nhiều hiệp định khác nhau trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ nhằm tăng cường cạnh tranh lành mạnh. Hiệp định về mua sắm chính phủ là một trong các hiệp định nhiều bên tuỳ nghi mở ra cho các thành  viên tham gia quy định về cách cạnh tranh đối với những thị trường có sự tham gia của hàng nghìn thực thể có tư cách pháp lý khác nhau.
2.2.5. Nguyên tắc giành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và chậm phát triển và khuyến khích các nước đó phát triển và cải cách kinh tế
WTO có khoảng 2/3 số thành viên là những nước đang phát triển và chậm phát triển. Các nước này ngày càng đóng vai trò quan trọng và tích cực hơn nhờ số lượng đông đảo của mình tại WTO, nhờ vị trí ngày càng lớn của họ trong nền kinh tế thế giới, nhờ việc càng ngày họ càng nhận thức rõ hơn thương mại là công cụ quan trọng hàng đầu trong nỗ lực phát triển kinh tế của mỗi đất nước. Các nước đang phát triển và chậm phát triển tại WTO là nhóm nước rất đa dạng và thường có các quan điểm và mối quan tâm rất khác nhau. WTO đang cố gắng đáp ứng nhu cầu đặc biệt của các nước đó bằng ba cách thức cơ bản: Thứ nhất, đưa ra những quy định đặc biệt dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển; Thứ hai, lập ra Uỷ ban về thương mại và phát triển với tính cách là cơ quan chủ yếu của WTO lo các công việc của WTO trong lĩnh vực này cùng với một số uỷ ban khác như thương mại và nợ hoặc chuyển giao công nghệ; Thứ ba là cung cấp trợ giúp kỹ thuật (chủ yếu dưới các hình thức đào tạo) cho các nước đang phát triển và chậm phát triển thông qua Ban thư ký của WTO. Đối với các hiệp định thì thời hạn thực hiện dài hơn, các điều kiện ưu đãi hơn. Trong các hiệp định của WTO có nhiều điều khoản dành cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất một số quyền ưu đãi đặc biệt hay quyền được đối xử nhẹ hơn, mềm dẻo hơn, hay nói cách khác là quyền được “đối xử đặc biệt và đối xử khác biệt”. Trong số đó,  một số cho phép các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển nhiều ưu đãi hơn là cho các nước thành viên khác của WTO. Hiệp định GATT 1947có một đoạn đặc biệt (Phần 4) về thương mại và phát triển quy định phải áp dụng nguyên tắc không có đi có lại trong đàm phán thương mại giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, đặc biệt, khi một nước phát triển cho một nước đang phát triển cụ thể được hưởng những nhân nhượng thương mại, thì nước phát triển đó không được gây áp lực để buộc nước đang phát triển đưa ra các cam kết nhượng bộ tương đương. Điều cần chú ý là cả Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định GATS đều quy định dành cho các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển một số đối xử ưu đãi khác biệt nhất định. Một số hiệp định khác của WTO cũng có quy định những biện pháp khác dành cho các nước đang phát triển như: dành cho các nước này thời hạn dài hơn để thực hiện đầy đủ các cam kết của mình; tạo cơ hội thương mại cho các nước này thông qua điều kiện mở rộng hơn khả năng tiếp cận thị trường; yêu cầu các nước thành viên của WTO phải bảo đảm lợi ích của các nước đang phát triển khi đưa ra các biện pháp tự vệ ở cấp độ quốc gia hoặc quốc tế; định ra các phương thức hỗ trợ thích hợp cho các nước đang phát triển, chẳng hạn giúp các nước này thực hiện các cam kết về các tiêu chuẩn sức khoẻ động vật và bảo vệ thực vật, bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc phát triển khu vực viễn thông nội địa của các nước đó. Ngoài ra, Ban thư ký của WTO còn có các cố vấn pháp lý đặc biệt có nhiệm vụ giúp đỡ, tư vấn pháp lý cho các nước đang phát triển trong các vụ tranh chấp tại WTO. WTO cũng có thể hỗ trợ về tư vấn thông qua Viện Đào tạo và Hợp tác kỹ thuật của mình. Đây là phương thức thường được các nước đang phát triển sử dụng.
Các nước kém phát triển nhất được WTO quan tâm nhiều hơn. Tất cả các hiệp định của WTO đều thừa nhận phải linh hoạt tối đa đối với các nước kém phát triển nhất. Các nước thành viên phát triển hơn phải nỗ lực hơn nữa để giảm bớt các rào cản thương mại đối với các nước này. Tại Hội nghị Singapo năm 1996, các bộ trưởng đã nhất trí về “Kế hoạch hành động vì các nước kém phát triển nhất”. Bản Kế hoạch này đã nhấn mạnh đến hỗ trợ kỹ thuật cho các nước kém phát triển nhất nhằm giúp các nước này tham gia nhiều hơn vào hệ thống thương mại đa biên và tạo điều kiện cho hàng hoá các nước kém phát triển nhất được tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường các nước. Một năm sau, vào tháng 10-1997, Ngân hàng Thế giới, Trung tâm Thương mại quốc tế, Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển, Quỹ Tiền tệ quốc tế, WTO và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc đã đưa ra một “Khuôn khổ thống nhất” về trợ giúp kỹ thuật cho các nước kém phát triển nhất. Năm 2002, WTO đã thông qua chương trình dành cho các nước kém phát triển nhất có những điểm chính sau: nâng cao khả năng tiếp cận thị trường; tăng cường trợ giúp kỹ thuật; hỗ trợ các tổ chức đang nỗ lực giúp đa dạng hoá nền kinh tế của các nước kém phát triển nhất; hỗ trợ để các nước kém phát triển nhất có thể theo đuổi các chương trình đàm phán của WTO và đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO của những nước đang tiến hành đàm phán gia nhập. Một số nước thành viên của WTO cũng có hỗ trợ tài chính cho các nước kém phát triển nhất.
3. Cơ cấu tổ chức của WTO
WTO được tổ chức và hoạt động bởi chính phủ của các nước thành viên. Tất cả các quyết định quan trọng đều được xây dựng và thông qua bởi các Bộ trưởng (ít nhất họp một lần trong 2 năm) hoặc các quan chức các nước (họp thường xuyên ở Geneva) chủ yếu trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận (consensus). Đến 20.10.2009, WTO có 153 thành viên chính thức, Việt Nam là thành viên thứ 150, khoảng 30 quan sát viên.
Cơ cấu tổ chức của WTO bao gồm các cơ quan chủ yếu sau:
a) Hội nghị Bộ trưởng
Đây là cơ quan cao nhất của WTO, trong 02 năm họp ít nhất một lần, bàn và giải quyết mọi công việc liên quan đến các hiệp định của WTO .
b) Đại hội đồng
Đại hội đồng là cơ quan thuộc cấp độ thứ hai của WTO, sau Hội nghị Bộ trưởng.
Đại hội đồng là cơ quan thay mặt Hội nghị Bộ trưởng giải quyết tất cả các công việc hàng ngày của WTO giữa hai kỳ họp Hội nghị Bộ trưởng; có trách nhiệm điều  hành các hoạt động và  thực hiện các nhiệm vụ của ba cơ quan: Đại hội đồng, Cơ quan Giải quyết tranh chấp và Cơ quan Rà soát chính sách, pháp luật thương mại. Trên thực tế, ba cơ quan này chỉ là một. Cho dù Hiệp định thành lập WTO quy định các chức năng của những cơ quan này đều do Đại hội đồng thực hiện, nhưng trên thực tế, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, Đại hội đồng nhóm họp với những chức năng và nhiệm vụ của mỗi cơ quan khác nhau. Cả ba cơ quan này đều bao gồm các đại diện của tất cả các thành viên, báo cáo hoạt động cho Hội nghị Bộ trưởng.    
c) Các Hội đồng theo từng lĩnh vực thương mại lớn và các cơ quan khác.
Đây là các cơ quan thuộc cấp độ thứ ba của WTO, sau Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng.
Các Hội đồng theo từng lĩnh vực thương mại lớn và các cơ quan khác được tổ chức như sau:
+ Có ba Hội đồng lớn trực thuộc Đại hội đồng, mỗi Hội đồng chịu trách nhiệm về một lĩnh vực thương mại lớn: Hội đồng thương mại hàng hoá (Hội đồng hàng hoá), Hội đồng thương mại dịch vụ (Hội đồng dịch vụ), Hội đồng các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hội đồng TRIPS). Các hội đồng này chịu trách nhiệm giám sát sự vận hành của các hiệp định đã ký kết của WTO theo từng lĩnh vực được phân công. Các hội đồng cũng bao gồm đại diện của tất cả các thành viên WTO và cũng có các cơ quan bổ trợ.
+ Có các Cơ quan trực thuộc Đại hội đồng được gọi là các “Uỷ ban”, bao gồm đại diện của tất cả các thành viên của WTO. Thẩm quyền hoạt động của các cơ quan này hẹp hơn, phải báo cáo công tác ra trước Đại hội đồng. Các uỷ ban này chủ yếu phụ trách các vấn đề sau: thương mại và môi trường; thương mại và phát triển; các thoả thuận thương mại khu vực; về cán cân hạn chế và cấm thanh toán; các vấn đề ngân sách, tài chính và hành chính. Bên cạnh các uỷ ban này là các Nhóm công tác về thương mại, nợ và tài chính; thương mại và chuyển giao công nghệ; quan hệ giữa thương mại và đầu tư; thương mại và chính sách cạnh tranh và các Ban công tác về  việc kết nạp thành viên mới. Tại Hội nghị ở Singapo tháng 12-1996, các Bộ trưởng đã quyết định thành lập các nhóm công tác mới để theo dõi những vấn đề sau đây: chính sách đầu tư và chính sách cạnh tranh, minh bạch trong mua sắm chính phủ và thúc đẩy trao đổi.
+ Có các cơ quan trực thuộc khác phụ trách các lĩnh vực thuộc các hiệp định tuỳ nghi nhiều bên như hiệp định mua sắm chính phủ, mua bán máy bay dân dụng và uỷ ban về hiệp định công nghệ thông tin và có nhiệm vụ thường xuyên báo cáo với Đại hội đồng hoặc Hội đồng hàng  hoá về các hoạt động của mình.
+ Có Uỷ ban đàm phán thương mại trong phạm vi Chương trình Doha phát triển, phải báo cáo công tác ra trước Đại hội đồng.
d) Các đơn vị cơ sở
Các đơn vị cơ sở là các cơ quan thuộc cấp độ thứ tư của WTO. Mỗi Hội đồng cấp cao đều có các cơ quan bổ trợ. Hội đồng hàng hoá có 11 uỷ ban phụ trách từng vấn đề khác nhau (nông nghiệp, tiếp cận thị trường, trợ cấp, các biện pháp chống bán phá giá...) Các uỷ ban này cũng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Hội đồng hàng hoá cũng là cơ quan giám sát về dệt may, một cơ quan có Chủ tịch và 10 thành viên thực hiện các chức năng của mình trên danh nghĩa cá nhân, cũng là cơ quan giám sát các nhóm công tác thông báo (qua đó chính phủ các nước thông báo cho WTO về các chính sách hoặc biện pháp hiện hành hoặc mới đưa ra) và có Ban công tác về các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Các cơ quan bổ trợ của Hội đồng dịch vụ có Uỷ ban về các vấn đề thương mại dịch vụ tài chính và các cam kết đặc biệt. Hội đồng dịch vụ còn có Ban công tác về pháp luật quốc gia về lĩnh vực này, Ban công tác về các quy tắc của GATS.
Ở cấp độ Đại hội đồng, Cơ quan Giải quyết tranh chấp cũng có hai cơ quan bổ trợ, đó là “ các Ban hội thẩm” (Panels ) phụ trách giải quyết các tranh chấp, bao gồm các chuyên gia có nhiệm vụ đưa ra các báo cáo về giải quyết các tranh chấp do các nước thành viên trình và Cơ quan phúc thẩm (AB) chịu trách nhiệm xem xét theo thủ tục phúc thẩm các tranh chấp do Ban hội thẩm giải quyết nhưng không được các bên tranh chấp chấp thuận.
Ngoài ra, WTO còn có các cuộc gặp cấp trưởng các phái đoàn đại diện và các nhóm phái đoàn. Rất hiếm khi các quyết định được đưa ra trong những cuộc họp chính thức của các cơ quan nói trên của WTO, và càng hiếm hơn nữa trong các cuộc họp của các hội đồng cấp cao. Do các quyết định được thông qua theo nguyên tắc đồng thuận không có sự biểu quyết, nên việc tham khảo ý kiến không chính thức ở WTO đóng một vai trò quyết định trong việc đưa ra bất cứ giải pháp, quyết định nào của Tổ chức quốc tế với nhiều thành phần đa dạng như WTO. Bên cạnh những cuộc họp chính thức, WTO còn có những cuộc họp không chính thức, ví dụ như các cuộc họp của trưởng các phái đoàn, ở đó lại một lần nữa, tất cả các thành viên của WTO lại có mặt.
 

Tác giả bài viết: TKT

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn